Tìm hiểu về mã số định danh cá nhân

Theo thông tin mới nhất từ Báo Tây Ninh thì Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Tây Ninh cho biết, tính đến ngày 20.10, Tây Ninh còn hơn 180 ngàn trường hợp công dân đã làm CCCD nhưng chưa có thẻ bởi sự ảnh hưởng từ đại dịch Covid – 19. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho người dân khi cần làm các thủ tục hành chính. Nhưng với sự hướng dẫn mới nhất từ Thượng tá Nguyễn Văn Nước – Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh thì khó khăn trên đã có cách giải quyết.

Cụ thể, đối với trường hợp công dân chưa nhận được thẻ CCCD thì có thể sử dụng giấy CMND 9 số hoặc CMND 12 số và CCCD có gắn mã vạch còn hiệu lực trong giao dịch hành chính và giao dịch dân sự.

Trong trường hợp công dân không còn CMND 9 số, CMND 12 số, CCCD mã vạch thì có thể liên hệ công an xã, phường, thị trấn để xin được cấp số định danh cá nhân. Đây cũng chính là số căn cước công dân được sử dụng trong mọi giao dịch hành chính thông thường.

Vậy mã số định danh cá nhân là gì? Cùng Top Tây Ninh tìm hiểu về mã số định danh cá nhân nhé!

Mã số định danh cá nhân

SĐDCN là dãy số gồm 12 chữ số, dùng để xác định dữ liệu thông tin công dân trên Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (do Bộ Công an quản lý) và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác. Đây cũng chính là 12 số trên thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip điện tử, CCCD 12 số hiện nay. SĐDCN được quy định rõ trong luật Căn cước công dân năm 2014.

Ngày 14.11, theo một cán bộ có trách nhiệm của Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) Bộ Công an, từ cuối năm 2016, đầu năm 2017, Bộ Công an và Bộ Tư pháp đã tiến hành cấp SĐDCN cho công dân từ 14 tuổi trở lên khi bắt đầu làm thẻ CCCD và trẻ em mới sinh ra đăng ký làm giấy khai sinh

Tiếp đó, thực hiện luật CCCD năm 2014, Nghị định số 137/2015 ngày 31.12.2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật CCCD, Nghị định số 37/2021 ngày 29.3.2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 137/2015 và các thông tư, văn bản (hướng dẫn thực hiện luật Cư trú và luật CCCD) của Bộ Công an, công an cả nước đã tiến hành thu thập dữ liệu dân cư và hoàn thành việc xác lập SĐDCN cho công dân VN đã được thu thập thông tin dân cư.

“Có thể nói đến nay tất cả các công dân Việt Nam đều đã có SĐDCN được xác lập trên Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Việc vẫn còn một số trường hợp chưa được cấp SĐDCN, có thể là do lỗi của công an địa phương chưa thông báo cho người dân”, vị cán bộ thuộc C06 cho biết.

Tìm hiểu về mã số định danh cá nhân 01

Hình ảnh người dân đi làm CCCD gắn chip. Nguồn: Báo Tây Ninh

Công an hướng dẫn cách cấp mã số định danh cá nhân

Lãnh đạo Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (PC06) – Công an TP.HCM cho biết SĐDCN gắn liền với cá nhân từ khi sinh ra cho đến khi qua đời, không thay đổi và không trùng lặp với SĐDCN của người khác. Các SĐDCN được bảo mật hoàn toàn. SĐDCN được xác lập từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư dùng để kết nối, cập nhật, chia sẻ, khai thác thông tin của công dân để phục vụ cho việc giải quyết thủ tục hành chính. Công dân được cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Bộ Công an cấp SĐDCN khi: Đăng ký khai sinh và khi làm CCCD với trường hợp đã đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú nhưng chưa được cấp SĐDCN (ví dụ người đang sử dụng CMND 9 số).

Theo lãnh đạo PC06, từ cuối tháng 2.2020, Bộ Công an đã chính thức đưa vào vận hành Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đây là dự án số hóa có quy mô lớn nhất cả nước, chứa thông tin của hơn 90 triệu dân (khoảng 92% dân số).

Về trình tự thủ tục cấp SĐDCN, việc cấp đối với công dân đăng ký khai sinh thì người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử có trách nhiệm chuyển ngay các thông tin của người được đăng ký khai sinh cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Thủ trưởng cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có trách nhiệm kiểm tra thông tin, cấp và chuyển ngay SĐDCN cho cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch.

Về cấp SĐDCN đối với công dân đã đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, thì công dân đã đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú nhưng chưa được cấp SĐDCN theo quy định: khi làm thủ tục cấp thẻ CCCD, sẽ được cơ quan quản lý CCCD thu thập thông tin dân cư gồm: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi đăng ký khai sinh, quê quán, dân tộc, quốc tịch, họ tên và quốc tịch của cha mẹ, nơi thường trú… Sau đó, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư kiểm tra thông tin của công dân, cấp và chuyển ngay SĐDCN cho cơ quan cấp thẻ CCCD.

Tuy nhiên, theo lãnh đạo PC06, có một số trường hợp công dân đã đăng ký khai sinh, nhưng chưa được cấp SĐDCN, thì cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư xác lập SĐDCN cho công dân theo thông tin hiện có trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Trường hợp thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chưa đầy đủ hoặc cần điều chỉnh, thì công dân bổ sung thông tin cho công an xã, phường, thị trấn nơi mình đang cư trú để thực hiện cập nhật, chỉnh sửa thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Tham khảo từ Báo Thanh Niên, Báo Tây Ninh

Tham khảo thêm tại Fanpage: https://www.facebook.com/toptayninh
Hộp thư góp ý: info@toptayninh.com hoặc tại đây!
Hotline: 0886. 6789.70